**Đảo Đài Loan trên sông Mê Kông – Hòn đảo Tân Lộc và mối liên hệ với Đài Loan**
Kính chào quý độc giả, hôm nay chúng tôi mang đến cho quý vị một câu chuyện đặc biệt về hòn đảo Tân Lộc, một hòn đảo nhỏ trên sông Mê Kông có mối liên hệ lịch sử đáng chú ý với Đài Loan.
Hòn đảo Tân Lộc nằm trong tỉnh An Giang, Việt Nam. Đây không chỉ là một điểm đến du lịch hấp dẫn với nhiều cảnh đẹp thiên nhiên tuyệt đẹp và văn hóa phong phú, mà còn mang trong mình câu chuyện về những cư dân gốc Đài Loan định cư từ hàng thế kỷ trước.
Vào thế kỷ 17, một nhóm người Đài Loan đã vượt biển Nam Trung Hoa để đến vùng đất hứa này. Họ mang theo không chỉ hy vọng về một cuộc sống mới mà còn cả văn hóa, phong tục và truyền thống của quê hương mình. Trải qua nhiều thập kỷ, họ đã hòa nhập và đóng góp vào sự phát triển của cộng đồng địa phương, và để lại dấu ấn sâu đậm trong văn hóa và lịch sử của hòn đảo này.
Ngày nay, hòn đảo Tân Lộc vẫn giữ được nhiều nét văn hóa Đài Loan, từ kiến trúc nhà cửa, đền miếu cho đến các lễ hội truyền thống. Điều này không chỉ tạo nên sự phong phú trong bản sắc văn hóa của địa phương mà còn thu hút rất nhiều du khách và học giả đến tìm hiểu và nghiên cứu.
Chuyến đi đến Tân Lộc sẽ đưa du khách trở về quá khứ và khám phá sự kết nối lịch sử giữa Đài Loan và Việt Nam. Đây là một minh chứng rõ ràng cho thấy văn hóa và con người có thể vượt qua mọi khoảng cách về địa lý, tạo nên những sợi dây liên kết bền chặt và lâu dài.
Nếu có dịp đến thăm An Giang, đừng quên ghé thăm hòn đảo Tân Lộc để cảm nhận một phần văn hóa Đài Loan giữa lòng sông Mê Kông.
Cảm ơn quý độc giả đã quan tâm. Chúng tôi sẽ tiếp tục mang đến những câu chuyện thú vị và đặc biệt từ mọi miền đất nước.
Nguồn tin: Phóng viên địa phương, An Giang, Việt Nam.
Sông Mekong, dòng sông của sự sống trên bán đảo Đông Dương, trước khi chảy ra biển đã tạo thành một đồng bằng châu thổ ở phía nam biên giới Việt Nam. Cần Thơ là một thành phố trực thuộc trung ương nằm ở trung tâm của châu thổ này. Từ bến tàu bên bờ sông, chỉ mất chưa đầy mười phút đi phà để đến một hòn đảo nhỏ có diện tích khoảng 32 km². Người dân địa phương gọi nó là “Cù Lao Tân Lộc,” nhưng trong hai mươi năm qua, nó còn có một biệt danh khác là “Đảo Đài Loan.”
Là một phóng viên địa phương tại Việt Nam, tôi xin cập nhật tình hình tại cù lao này. Sự hiện diện và đóng góp của cộng đồng người Đài Loan ở đây đã mang lại nhiều thay đổi tích cực cho nơi này, từ phát triển kinh tế, du lịch cho đến các hoạt động văn hóa và xã hội. Các bạn có thể dễ dàng cảm nhận được sự pha trộn độc đáo giữa văn hóa Việt Nam và Đài Loan khi đặt chân đến đây.
Mùa hè này, trên hòn đảo có một khóa học đặc biệt. Hơn chục đứa trẻ tụ họp trong một lớp học dựng bằng mái tôn, học tiếng Trung từ các sinh viên đại học đến từ Đài Loan. Cô bé nhỏ Huyên vừa tròn 14 tuổi, nổi bật là một trong những đứa trẻ trầm lặng nhất trong nhóm. Lẽ ra, ở Việt Nam cô bé đã vào lớp 7, nhưng khi mới hơn một tuổi, cô đã được gửi trở lại đảo, nơi ông bà ngoại nuôi nấng cô.
Rất nhiều trường hợp giống như cô bé nhỏ Chầm xuất hiện trên đảo là điều không hiếm gặp. Yêu ca hát, nhưng ít nói chuyện, A Phong là một trong những người may mắn hơn. Có hoàn cảnh tương tự như nhỏ Chầm, nhưng anh đã được nhận nuôi bởi chú mình, giúp anh có quốc tịch Việt Nam và có điều kiện học hết cấp ba tại địa phương.
Hình ảnh thu nhỏ và khó khăn của những câu chuyện về cuộc hôn nhân xuyên quốc gia trên đảo Xinlu
Hòn đảo Tân Lộc trong nửa thế kỷ qua là một bức tranh thu nhỏ của cả khu vực Tây Nam Bộ của Việt Nam. Ông Đoàn Văn Nhu là một nhà văn trên đảo, đồng thời cũng từng là phó chủ tịch xã. Theo lời ông kể, nơi đây từng có gần 50 nhà máy đường, vì thế mà đảo có tên gọi là “đảo ngọt ngào”.
Kể từ khi Việt Nam bắt đầu chính sách Đổi Mới vào năm 1986 và sự suy tàn của ngành công nghiệp mía đường, cư dân trên đảo đã bắt đầu di cư đến Đài Loan hoặc làm việc tại Đài Loan. Điều này đã khiến hòn đảo từ chỗ từng được gọi là “đảo ngọt” nay trở thành “đảo Đài Loan.” Ông Đoàn Văn Nụ cho biết: “Số lượng phụ nữ lấy chồng xa xứ, đặc biệt là đến Đài Loan, rất đông đảo. Do sự suy thoái và phá sản của ngành mía đường, nguồn thu nhập kinh tế gần như không còn, nên những phụ nữ này phải lấy chồng xa xứ để giải quyết khó khăn, trở thành cứu tinh cho gia đình.”
Người dân đảo Tân Lộc và giáo viên lớp học tiếng Hoa, chị Phạm Thị Trúc Mai, chia sẻ: “Lấy ví dụ cộng đồng của chúng tôi, cứ cách 3 hộ gia đình thì có 1 đến 2 hộ có con gái lấy chồng Đài Loan, một số gia đình có tất cả con gái đều lấy chồng Đài Loan, theo tôi được biết con số này lên đến hàng trăm người.” Nhưng những đứa trẻ này, một phần do hôn nhân của bố mẹ gặp vấn đề hoặc do kinh tế, đã bị gửi trả về Việt Nam.
Thành phố Cần Thơ đã tiến hành một cuộc điều tra dân số vào năm 2018, cho thấy do tình trạng hôn nhân quốc tế, có đến 1.100 trẻ em không có hộ khẩu như bé Chèn được gửi về nuôi dưỡng tại địa phương. Trong số đó, có 30 em sống trên đảo Tân Lộc. Những “đứa con Đài Loan” lớn lên ở Việt Nam và không biết nói tiếng Trung, khi trưởng thành, phần lớn các em đều mong muốn được trở lại Đài Loan để học tập hoặc làm việc. Rào cản ngôn ngữ trở thành một vấn đề lớn đối với các em.
Trước đại dịch, một đoàn nghiên cứu từ Đại học Chính trị đã tiến hành điều tra thực địa tại địa phương và nhận thấy vấn đề này. Năm nay, đoàn đã mở nhiều khoá học miễn phí tiếng Hoa liên tiếp trên đảo, nhằm tạo cơ hội cho con em thế hệ thứ hai được nuôi dưỡng bởi ông bà ở nước ngoài có thể kết nối lại với Đài Loan.
**Biên dịch với tư cách là một phóng viên địa phương tại Việt Nam:**
Trước đại dịch COVID-19, một nhóm nghiên cứu từ Đại học Chính trị Đài Loan đã tiến hành khảo sát thực địa tại địa phương và nhận thấy một vấn đề đáng chú ý. Từ đầu năm nay, nhóm đã liên tục mở các lớp dạy tiếng Hoa miễn phí trên đảo, nhằm tạo cơ hội cho thế hệ thứ hai được nuôi dưỡng giữa các quốc gia có thể kết nối lại với Đài Loan.
Lớp học tiếng Hoa đã thu hút sự chú ý của người dân địa phương. Trần Khải Đăng, 17 tuổi, có hai người cô đã lấy chồng và định cư tại Đài Loan. Chuẩn bị tốt nghiệp trung học, cậu mong muốn du học tại Đài Loan trong tương lai nên đã đến lớp học tiếng Hoa. Phó giáo sư Cao Nhã Ninh của khoa Dân tộc học trường Đại học Chính Trị cho biết: “Một số học viên có cô hoặc dì đã lấy chồng và ổn định cuộc sống tại Đài Loan, hy vọng rằng các em nhỏ ở quê hương cũng có thể đến Đài Loan học tập.”
Trên đảo Tân Lộc có những đứa trẻ mong muốn được sang Đài Loan học tập, trong khi trên một bãi cát khác nằm cách đó hơn 50 km trên sông Mekong, lại có một người mẹ đang ngày đêm nhớ thương những đứa con của mình. Chị Ngân, 42 tuổi, hàng ngày đạp xe tới làm việc ở bên kia đảo. Năm 21 tuổi, thông qua sự giới thiệu của bạn bè, chị đã kết hôn và chuyển tới sống tại Cao Hùng, Đài Loan – nơi cũng nắng nóng không kém gì miền Nam Việt Nam. Thế nhưng, sau khi sinh hạ một cặp con, chị mắc phải chứng trầm cảm sau sinh, tinh thần trở nên không ổn định. Vài năm sau, gia đình chồng đã gửi chị trở về Việt Nam bằng một tấm vé máy bay.
Hôn nhân di cư có thể mang lại hạnh phúc cho người dân địa phương, nhưng thường nhiều hơn là sự nuối tiếc. Theo thống kê chính thức của Việt Nam, ngoại trừ giai đoạn dịch bệnh, mỗi năm có khoảng hai mươi nghìn người Việt Nam kết hôn xuyên quốc gia và di cư ra nước ngoài. Phần lớn họ đến từ miền Nam Việt Nam. Riêng trong năm 2023, đã có 24.587 người kết hôn và di cư, trong đó 5435 người kết hôn tại Đài Loan và 4923 người tại Hàn Quốc. Đáng chú ý, tỉ lệ người kết hôn tại Hàn Quốc đang tăng dần theo từng năm.
Dòng người di cư qua các quốc gia, hôn nhân chỉ là một hình thức trong đó, nhưng con đường này đầy rẫy những bất định, làm cho số phận của những phụ nữ này và tương lai của thế hệ tiếp theo giống như lục bình trôi trên sông, bấp bênh và muôn nẻo.